Các vi khuẩn trong nước thải có thể chia làm 4 nhóm lớn: nhóm hình cầu (cocci) có đường kính khoảng 1 ¸ 3 mm; nhóm hình que (bacilli) có chiều rộng khoảng 0,3 ¸ 1,5 mm chiều dài khoảng 1 ¸ 10,0 mm (điển hình cho nhóm này là vi khuẩn E. coli có chiều rộng 0,5 mm chiều dài 2 mm); nhóm vi khuẩn hình que cong và xoắn ốc, vi khuẩn hình que cong có chiều rộng khoảng 0,6 ¸ 1,0 mm và chiều dài khoảng 2 ¸ 6 mm; trong khi vi khuẩn hình xoắn ốc có chiều dài có thể lên đến 50 mm; nhóm vi khuẩn hình sợi có chiều dài khoảng 100 mm hoặc dài hơn. Các vi khuẩn có khả năng phân hủy các hợp chất hữu cơ trong tự nhiên cũng như trong các bể xử lý. Do đó đặc điểm, chức năng của nó phải được tìm hiểu kỹ. Ngoài ra các vi khuẩn còn có khả năng gây bệnh và được sử dụng làm thông số chỉ thị cho việc ô nhiễm nguồn nước bởi phân. Điều này sẽ bàn kỹ trong phần sau.
Nấm có cấu tạo cơ thể đa bào, sống hiếu khí, không quang hợp và là loài hóa dị dưỡng. Chúng lấy dưỡng chất từ các chất hữu cơ trong nước thải. Cùng với vi khuẩn, nấm chịu trách nhiệm phân hủy các chất hữu cơ có trong nước thải. Về mặt sinh thái học nấm có hai ưu điểm so với vi khuẩn: nấm có thể phát triển trong điều kiện ẩm độ thấp và pH. Không có sự hiện diện của nấm, chu trình carbon sẽ chậm lại và các chất thải hữu cơ sẽ tích tụ trong môi trường.
Nguyên sinh động vật có cấu tạo cơ thể đơn bào, hầu hết sống hiếu khí hoặc yếm khí không bắt buộc chỉ có một số loài sống yếm khí. Các nguyên sinh động vật quan trọng trong quá trình xử lý nước thải bao gồm các loài Amoeba, Flagellate và Ciliate. Các nguyên sinh động vật này ăn các vi khuẩn và các vi sinh vật khác do đó, nó đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng hệ vi sinh vật trong các hệ thống xử lý sinh học. Một số nguyên sinh động vật gây bệnh cho người như Giardalamblia và Cryptosporium.
Động vật và thực vật bao gồm các loài có kích thước nhỏ như rotifer đến các loài giáp xác có kích thước lớn. Các kiến thức về các loài này rất hữu ích trong việc đánh giá mức độ ô nhiễm của các nguồn nước cũng như độc tính của các loại nước thải.
Vi rút là các loài ký sinh bắt buộc, các loại vi rút phóng thích ra trong phân người có khả năng lây truyền bệnh rất cao. Một số loài có khả năng sống đến 41 ngày trong nước và nước thải ở 20oC và 6 ngày trong nước sông bình thường.
Nước thải có chứa một lượng khá lớn các sinh vật gây bệnh bao gồm vi khuẩn, vi rút, nguyên sinh động vật và các loại trùng. Nguồn gốc chủ yếu là trong phân người và gia súc.
Năm 1986, Shuval và các cộng sự viên đã xếp loại các nhóm vi sinh vật này theo mức độ gây nguy hiểm của nó đối với con người. Ông cũng đưa ra nhận xét là các tác hại lên sức khỏe con người chỉ xảy ra đáng kể khi sử dụng hoặc phân tươi hoặc phân lắng chưa kỹ, và các biện pháp xử lý thích đáng sẽ góp phần đáng kể trong việc bảo vệ sức khỏe con người.
Các vi sinh vật chỉ thị việc nhiễm bẩn nguồn nước bởi phân
Fecal streptococci: nhóm này bao gồm các vi khuẩn chủ yếu sống trong đường ruột của động vật như Streptococcus bovis và S. equinus; một số loài có phân bố rộng hơn hiện diện cả trong đường ruột của người và động vật nhu S. faecalis và S. faecium hoặc có 2 biotype (S. faecalis var liquefaciens và loại S. faecalis có khả năng thủy phân tinh bột). Các loại biotype có khả năng xuất hiện cả trong nước ô nhiễm và không ô nhiễm. Việc đánh giá số lượng Faecal streptococci trong nước thải được tiến hành thường xuyên; tuy nhiên nó có các giới hạn như có thể lẫn lộn với các biotype sống tự nhiên; F. streptococci rất dễ chết đối với sự thay đổi nhiệt độ. Các thử nghiệm về sau vẫn khuyến khích việc sử dụng chỉ tiêu này, nhất là trong việc so sánh với khả năng sống sót của Salmonella. Ở Mỹ, số lượng 200 F. coliform/100 mL là ngưỡng tới hạn trong tiêu chuẩn quản lý các nguồn nước tự nhiên để bơi lội.
tiêu này được đánh giá là rất hiệu quả, do các bào tử của nó có khả năng sống sót tương đương với một số loại vi rút và trứng ký sinh trùng.
Việc phát hiện, xác định từng loại vi sinh vật gây bệnh khác rất khó, tốn kém thời gian và tiền bạc. Do đó để phát hiện nguồn nước bị ô nhiễm bởi phân người ta dùng các chỉ định như là sự hiện diện của Fecal Coliforms, Fecal Streptocci, Clostridium perfringens và Pseudomonas acruginosa. Cũng cần phải nói thêm rằng mối quan hệ giữa sự chết đi của các vi sinh vật chỉ thị và vi sinh vật gây bệnh chưa được thiết lập chính xác. Ví dụ khi người ta không còn phát hiện được Fecal Coliform nữa thì không có nghĩa là tất cả các vi sinh vật gây bệnh đều đã chết hết. Trong quá trình thiết kế các hệ thống xử lý các nhà khoa học và kỹ thuật phải hạn chế tối đa các ảnh hưởng của chất thải tới sức khoẻ cộng đồng. Mỗi nước, mỗi địa phương thường có những tiêu chuẩn riêng để kiểm tra khống chế. Do kinh phí và điều kiện có giới hạn các Sở KHCN & MT thường dùng chỉ tiêu E. coli hoặc tổng coliform để qui định chất lượng các loại nước thải.
Xếp loại các vi sinh vật có trong phân người và gia súc theo mức độ nguy hiểm
Mức độ nguy hiểm cao | Ký sinh trùng (Ancylostoma, Ascaris, Trichuris và Taenia) |
Mức độ nguy hiểm trung bình | Vi khuẩn đường ruột (Chloera vibrio, Sallmonella typhosa, Shigella và một số loại khác) |
Mức độ nguy hiểm thấp | Các vi rút đường ruột |
Np: số ống nghiệm phát hiện coliform (possitive)
Vn: thể tích mẫu trong các ống nghiệm không phát hiện coliform (negative) Vt: tổng thể tích mẫu trong tất cả các ống nghiệm.
Bài tập: Khi nuôi cấy để xác định số lượng coliform, người ta có các kết quả sau
Thể tích mẫu (mL) | Ống dương tính | Ống âm tính |
10.0 | 4 | 1 |
1.0 | 4 | 1 |
0.1 | 2 | 3 |
0.01 | 0 | 5 |
Giải:
4 + 4 + 2 + 0 = 10
Thể tích mẫu trong các ống âm tính:
(1 ´ 10) + (1 ´ 1,0) + (3 ´ 0,1) + (5 ´ 0,01) = 11,35 mL
Thể tích mẫu trong tất cả các ống:
(5 ´ 10) + (5 ´ 1,0) + (5 ´ 0,1) + (5 ´ 0,01) = 55,55 mL
Số coloform khả hữu/100mL mẫu
Việc xác định các vi sinh vật gây bệnh chủ yếu
Salmonella spp.: một vài loài Salmonella có thể hiện hiện trong nước thải đô thị, kể cả S. typhi (gây bệnh thương hàn). Doran et al, 1977 cho rằng số lượng 700 Salmonella/L; khoảng chừng đó Shigellae và khoảng 1.000 Vibrio cholera/L thường phát hiện trong nước thải đô thị của khu vực nhiệt đới. Shigellae và Vibrio cholera nhanh chóng chết đi khi thải ra môi trường. Do đó nếu chúng ta sử dụng một biện pháp xử lý nào đó để loại được Salmonella thì cũng có thể bảo đảm là phần lớn các vi khuẩn kia đã bị tiêu diệt.
Enteroviruses: có thể gây các bệnh nguy hiểm như sởi, viêm màng não.
Rotaviruses: gây bệnh vùng vị trường. Số lượng của chúng tương đối thấp hơn enteroviruses.
Người ta đã chứng minh được rằng việc loại bỏ các loài vi rút có quan hệ mật thiết với việc loại bỏ các chất rắn lơ lửng.
Ký sinh trùng: thường thì các bệnh ký sinh trùng chủ yếu là do Ascaris lumbricoides, trứng của loài ký sinh trùng này có kích thước lớn (45 ¸ 70 mm ´ 35 ¸ 50 mm) và các phương pháp để xác định ký sinh trùng đã được thiết lập bởi WHO, 1989.
· pH của mẫu phải từ 4 – 9 để bảo đảm không có ảnh hưởng xấu đến cả hai nhóm vi khuẩn này.
· Mỗi mẫu phải được đếm í nhất 2 lần.
· Để giảm thiểu sai số do tỉ lệ chết khác nhau, mẫu phải được lấy tại nơi cách nguồn gây ô nhiễm không quá 24 h (tính theo vận tốc dòng chảy).
· Chỉ những cá thể Fecal coliform phát hiện ở phép thử ở 44oC mới được dùng để tính tỉ lệ FC/FS
Loại và số lượng các vi sinh vật trong nước thải sinh hoạt chưa xử lý
Sinh vật | Số lượng cá thể/mL |
Tổng coliform | 105 – 106 |
Fecal coliform | 104 – 105 |
Fecal streptococci | 105 – 104 |
Enterococci | 102 – 103 |
Shigella | Hiện diện |
Salmonella | 100 – 102 |
Pseudomonas aeroginosa | 101 – 102 |
Clostrium perfringens | 101 – 103 |
Mycobacterium tuberculosis | Hiện diện |
Cyst nguyên sinh động vật | 101 – 103 |
Cyst của Giardia | 10-1 – 102 |
Cyst của Cryptosporium | 10-1 – 101 |
Trứng ký sinh trùng | 10-2 – 10 |
Vi rút đường ruột | 101 – 102 |
Mức độ nhiễm bẩn vi sinh vật của nguồn nước phụ thuộc nhiều vào tình trạng vệ sinh trong khu dân cư và nhất là các bệnh viện. Đối với nước thải bệnh viện, bắt buộc phải xử lý cục bộ trước khi xả vào hệ thống thoát nước chung hoặc trước khi xả vào sông hồ.
Số lượng 1 số vi sinh vật gây bệnh trong phân và nước cống rãnh (của một cộng đồng 50.000 dân ở nhiệt đới)
Vi sinh vật gây bệnh | Tỉ lệ nhiễm (%) (a) | Số VSV/g phân
(b) |
Tổng VSV/ 1 người bị nhiễm/ ngày ( = 100 g phân) (c) | Tổng VSV/ngày của TP | Nồng độ/L trong nước cống rãnh (b) |
Vi rút | |||||
Enteroviruses | 5 | 106 | 108 | 2, x 1011 | 5.000 |
Vi khuẩn | |||||
E.Coli (e) | ? | 108 | 1010 | ? | ? |
Salmonella spp | 7 | 106 | 108 | 3.5 x 1011 | 7.000 |
Shigella spp | 7 | 106 | 108 | 3,5 x 1011 | 7.000 |
Vibrio Cholerae | 1 | 106 | 108 | 5 x 1010 | 1.000 |
Protozoa | |||||
Entamoeba histolyca | 30 | 15 ´ 104 | 15 ´ 106 | 2,5 ´ 1011 | 4.500 |
Ký sinh trùng | |||||
Ascaris lambricoides | 60 | 104f | 106 | 3 ´ 1010 | 600 |
Hook worm | 40 | 800f | 8 ´ 104 | 1,6 ´ 109 | 32 |
Schistosoma mansoni | 25 | 40f | 4 ´ 103 | 5 ´ 107 | 1 |
Taenia saginata | 1 | 104 | 106 | 5 ´ 109 | 10 |
Trichuris trichiara | 60 | 2 ´ 103f | 2 ´ 105 | 6 ´ 109 | 120 |
? Không có số liệu chính xác
a. Tỉ lệ nhiễm nhưng chưa có triệu chứng bệnh
b. Những VSV dưới đây có khả năng tồn tại ngoài cơ thể chủ khác nhau. Một vài loài chết nhanh chóng ngay sau khi thải ra. Lượng VSV ở trong nước cống rãnh được tính toán dựa trên cơ sở mỗi người sử dụng 100 lít nước/ngày và 90% lượng VSV trong phân đã bị vô hiệu hóa sau vài phút kể từ lúc phân được thải ra ngoài.
c. Giả sử rằng trung bình mỗi ngày một người thải ra 100g
d. Tính luôn polio, echo và coxsackieviruses
e. Tổng các loại E.Coli
f. Số lượng trứng ký sinh thải ra.
g. Ancyclostoma duodenale và Necator americanes
Đặc tính của nước thải sinh hoạt (mg/L)
Chỉ tiêu | Loại nước | ||
Cao | Trung bình | Thaáp | |
BOD5 | 400 | 220 | 110 |
COD | 1.000 | 500 | 250 |
Đạm hữu cơ | 35 | 15 | 8 |
Đạm amôn | 50 | 25 | 12 |
Đạm tổng số | 85 | 40 | 20 |
Lân tổng số | 15 | 8 | 4 |
Tổng số chất rắn | 1.200 | 720 | 350 |
Chất rắn lơ lửng | 350 | 220 | 100 |
Nguồn: Metcalf and Eddy, 1979, trích bởi Chongrak 1989